Dùng tài liệu photocopy trong học tập có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ?

Thứ hai - 29/09/2025 16:00
Dùng tài liệu photocopy trong học tập có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ?
Dùng tài liệu photocopy trong học tập có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ?
21/07/2025

Trong thực tiễn học tập, hiện tượng các học sinh, sinh viên sử dụng tài liệu photocopy rất phổ biến. Có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến hiện tượng này, tuy nhiên tựu chung lại, có thể nhận thấy được có sự khó khăn nhất định trong việc tiếp cận tài liệu gốc để sử dụng thay vì các tài liệu sao chép, tài liệu photocopy. Liệu sử dụng tài liệu photocopy trong học tập có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm gốc hay không? Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết của Luật Emerald.
1. Tác phẩm được bảo hộ như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Như vậy Quyền sở hữu trí tuệ là một nhóm quyền của tổ chức, các nhân bao gồm:
– Quyền tác giả: là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
– Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
– Quyền sở hữu công nghiệp: là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
– Quyền đối với giống cây trồng: là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Đối với các loại tài liệu học tập như giáo trình, sách tham khảo, đây được xem là các tác phẩm và sẽ được bảo hộ quyền tác giả.
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022 quy định quyền tác giả bao gồm hai nhóm quyền là quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong nhóm quyền tài sản có bao gồm quyền sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
Như vậy, các tài liệu photo sẽ liên quan đến quyền về sao chép tác phẩm.
2. Khi nào việc sao chép, sử dụng tài liệu sao chép không xâm phạm quyền tác giả?
Tại Việt Nam, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm mục đích thúc đẩy quá trình tạo ra các sản phẩm trí tuệ, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ được ưu tiên suy đến cùng là nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thông qua sự bảo hộ các các nhân và tổ chức có được sự công nhận với công sức mình bỏ ra. Các cá nhân, tổ chức cũng được cho phép tùy nghi sử dụng các quyền đối với sản phẩm trí tuệ của mình mà không bị người khác xâm phạm trong thời gian bảo hộ.
Tuy nhiên, khi hết thời hạn bảo hộ, các sản phẩm trí tuệ trên sẽ thuộc về cộng đồng, từ đó làm nguồn tư liệu quý giá để các sản phẩm trí tuệ sau ra đời và góp phần phát triển xã hội. Dẫn chứng rõ ràng nhất là quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022 nói rõ rằng việc bảo hộ phải hài hòa lợi ích giữa chủ thể sở hữu quyền và lợi ích công cộng.
Với mục đích trên, có thể thấy được tại Việt Nam, lợi ích công cộng của xã hội và nhà nước cần được cân bằng với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có thể dẫn chứng tới khoản 2, 3 Điều 7 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022. Theo đó, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ phải đảm bảo không xâm phạm tới lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân tổ chức khác.
Về ngoại lệ của quyền tác giả, Luật quy định rất chi tiết tại các điều, khoản gồm khoản 3 Điều 20, Điều 25, Điều 25a, Điều 26 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022. Khi rơi vào các trường hợp được liệt kê trên đây, quyền tác giả đối với tác phẩm, hoặc là bị giới hạn, hoặc là sẽ không được bảo hộ vì không xâm phạm quyền tác giả (fair use).
Ngoài ra, các tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ thì sẽ thuộc về cộng đồng. Do đó bất kể hành vi gì tác động đến đối tượng bảo hộ là tác phẩm cũng không xâm phạm vì quyền tác giả đã không còn được bảo hộ nữa.
2.1. Tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Quyền tài sản của quyền tác giả sẽ được bảo hộ hết đời của tác giả và năm mươi năm tiếp theo sau khi tác giả qua đời. Trường hợp có nhiều tác giả (đồng tác giả) thì chấm dứt bảo hộ vào năm thứ năm mươi sau khi đồng tác giả cuối cùng qua đời. Như vậy các tài liệu như giáo trình, sách tham khảo,… đã hết thời hạn trên thì không còn được bảo hộ quyền tác giả. Do đó có thể tự do sao chép, sử dụng.
2.2 Người sử dụng không liên quan đến hành vi sao chép
Cần phải phân biệt hành vi sao chép (hành vi có khả năng xâm phạm quyền tác giả) và hành vi sử dụng tài liệu sao chép với nhau. Nếu người sử dụng không liên quan đến việc sao chép tài liệu mà chỉ mua tài liệu qua một bên thứ ba thì không được xem là người xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp này, người sao chép tác phẩm (bằng máy photocopy) và chuyển nhượng lại bản sao tác phẩm đó lại cho người sử dụng mới là người xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
2.3. Người sử dụng tài liệu photo có liên quan đến việc sao chép nhưng thuộc các trường hợp ngoại lệ (fair use) hoặc giới hạn quyền
Trong trường hợp người sử dụng tài liệu có liên quan đến hành vi sao chép (bằng máy photocopy), căn cứ vào các điều khoản sau:
Khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022 quy định:
“3. Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
…”
Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ quy định:
“1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
a) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
b) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;

e) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập;…..

2. Việc sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

…”
Từ các quy định trên rút ra được rằng nếu sao chép toàn bộ tài liệu (giáo trình, tài liệu tham khảo) bằng máy photocopy thì không được xem là ngoại lệ tại điểm a khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ vì máy photocopy là thiết bị sao chép. Do đó hoàn toàn xâm phạm quyền tác giả.
Nếu chỉ sao chép một phần tài liệu bằng máy photocopy thì phải đáp ứng các điều kiện:
(i) Tỷ lệ sao chép hợp lý: Dù hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể để đánh giả tỷ lệ sao chép bao nhiêu là hợp lý. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng tại các trường đại học và thư viện là 15%;
(ii) Để phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân;
(iii) Không nhằm mục đích thương mại;
Nếu đã thỏa được ba điều kiện trên thì sẽ được xem là ngoại lệ và do đó không xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng chỉ được sao chép không quá một bản một phần tác phẩm (Điều 25 Nghị định 17/2023/NĐ-CP) và cũng không được ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
3. Làm thế nào để tránh trường hợp xâm phạm quyền tác giả khi sử dụng tài liệu photocopy.
Bước thứ nhất, người sử dụng tài liệu photo cần biết tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ như được đề cập bên trên hay chưa. Nếu đã hết thì có thể an tâm sao chép, sử dụng. Nên không cần xem xét các bước tiếp theo.
Bước thứ hai người sử dụng tài liệu photo cần nhận biết rằng việc photo toàn bộ tài liệu bằng máy photo không được xem là ngoại lệ dưới bất kỳ hình thức nào. Do vậy nếu tài liệu photo là toàn bộ tác phẩm thì người sử dụng không được liên quan đến việc sao chép tài liệu đó.
Bước ba, người sử dụng tài liệu photo nếu có liên quan đến việc sao chép tài liệu thì không được sao chép toàn bộ. Nếu chỉ sao chép một phần thì phải thỏa mãn 3 điều kiện được liệt kê ở phần trên.
Kết luận:
Như vậy, người sử dụng tài liệu photocopy cần lưu ý những vấn đề trên để tránh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, ảnh hưởng tới lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm cũng như không bị xử phạt vi phạm hành chính
Thọ Dương.

Nguồn: https://vietaau.vn/tai-lieu-photocopy/
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Giới thiệu
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây